Màu lông chim Màu sắc động vật

Bài chi tiết: Lông vũ
Một con chim có màu trắng xanh

Điểm nổi bật của loài chim chính là màu sắc của chúng. Màu sắc của các loài chim vừa là những đặc trưng và cũng là những đặc điểm nhận dạng riêng của chúng. Có một số loài chim màu sắc lông đẹp rực rỡ như một lá cờ hay bông hoa, một số khác mang màu lông u tối lẫn với bối cảnh xung quanh. Những loài chim có màu sắc lông sặc sỡ phần lớn thời gian sống trên cành cây, thường bay lượn không trung hoặc trên mặt nước, còn các loài chim có màu sắc lông u tối phần lớn thời gian sống trên mặt đất hoặc gần mặt đất. Màu lông nửa trên của thân chim thường thẫm màu hơn màu lông nửa dưới thân.

Màu sắc của lông chim có tác dụng bảo vệ làm cho chim không dễ bị kẻ thù phát hiện, đó gọi là màu sắc bảo vệ, như màu sắc của con cò nâu hòa hợp với môi trường sinh sống của nó là cỏ trong ao đầm. Màu sắc lông của con cò lửa thì giống như lá rụng. Các loài chim mái thì màu ít sặc sở hơn so với chim trống vì chim mái cần phải nằm trong ổ để ấp trứng nên thiên nhiên đã cho chim mái có màu sắc u tối hơn để tránh con mắt của kẻ thù tốt hơn, còn màu sắc lông chim trống sặc sỡ hơn còn vì một lý do khác nữa, đó là vì trong mùa sinh sản, chim đực phải hấp dẫn chim mái.

Phần lớn các loài chim Thiên đường được tìm thấy tại khu rừng rậm nhiệt đới tại đảo New Guinea và các đảo lân cận, một số loài thì sinh sống trên đảo Moluccas của Indonesia, và phía Đông Australia chúng có màu lông sặc sỡ. Màu lông của hồng hạc thay đổi tuỳ theo loài, từ hồng phai cho tới đỏ thẫm hoặc đỏ son, còn loài chim công là vua sắc đẹp trong thế giới loài chim[12]. Mắt chim phân biệt được nhiều màu sắc hơn mắt người, Vỏ trứng có chứa sắc tố protroporfirin và biliverdin, khiến vỏ trứng (dù chỉ một màu hay lốm đốm) có sắc độ riêng. Proporfirin làm vỏ trứng có màu nâu nhạt, còn biliverdin làm trứng hơi xanh lơ hoặc xanh lá cây[13].

Một số loài chim có màu sắc đẹp:

  • Các loài chim có màu sắc đẹp

Màu lông

Bài chi tiết: Màu lông gà
Một con gà trống lông đậm thuộc giống gà Rhode đỏMột con gà mái mơ tơMột con gà có màu lông hạt vừng, đây là màu lông hoang dã và nguyên thủyMột con gà lông đenMột con gà lông da bò

Gà nhà có rất nhiều màu lông ở các giống gà khác nhau hay những biến thể trong cùng một giống (nhất là các giống gà kiểng). Gen điều khiển di truyền màu lông, gà có rất nhiều loại, nhưng thông qua phân tích sinh học và tổ chức, màu lông có thể chia thành hai loại lông có màu và lông không màu (gà lông trắng). Trong đó nhân sắc ở lông có màu lại đậm nhạt khác nhau, còn tồn tại các màu từ vàng nhạt đến đen đậm.

Màu lông của các giống gà hiện nay chủ yếu bị điều khiển bởi các gen (ký hiệu):

  • Gen hình thành sắc tố ức chế, ký hiệu là I: quỹ tích gen này có hai alen I và i. Gen I trội đối với gen i. Gen I (trội) đều có vai trò ức chế đối với gen màu lông khác.
  • Gen lặn lông trắng, ký hiệu là c và o: alen trội C của gen c là gen sắc tố ban đầu (là gen lặn), alen O của gen o là gen oxidase. Sự hình thành của bất kỳ sắc tố nào đều cần phải có sự tồn tại đồng thời của procyanidin và oxidase. Chỉ khi gen C và gen O cùng tồn tại, lông mới có màu.
  • Gen biểu hiện procyanidin, ký hiệu là p: quỹ tích gen này có alen P và p, trong đó, P trội so với p (lặn). Khi gen này ở vào trạng thái đồng hợp lặn pp, có thể phát huy vai trò epistatic lặn đối với CCOO.
  • Gen phi bạch tạng, ký hiệu là A: gà lông trắng lặn mang cặp gen bạch tạng lặn (aa), gen C không mang procyanidin, toàn thân sẽ có màu lông và màu da trắng, mắt màu đỏ; nếu cá thể này giao phối với cá thể gà có màu sắc lông sẽ bị mất đi một gen bạch tạng lặn, sẽ thu được gen C procyanidin, thế hệ sau sẽ được gà với lông có màu.
  • Gen khuếch tán melamin, ký hiệu là E: quỹ tích gen khuếch tán melamin gồm có 7 alen, đó là các alen E, ewh, e+, ep, es, ebc và ey.
  • Gen màu bạc, ký hiệu là S: quỹ tích gen này có 3 alen phức hợp, đó là các alen S, s và sal, gen màu bạc là gen kết nối giới tính. Trong 3 alen, S quyết định màu bạc, s điều khiển màu vàng, sal điều khiển bạch tạng không hoàn chỉnh mà sắc tố hình thành, tính trội và lặn của 3 alen này như sau: S>s> sal.
  • Ngoài các gen biểu hiện màu lông nói trên, còn có gen màu nâu (Gr), gen màu vàng (Mb), gen màu nhạt (Di), Gen màu đậm (Cb) và gen màu xám nhạt (Bl).

Di truyền các loại màu lông ở gà có các màu lông cơ bản sau: màu vàng, màu hạt vừng, màu trắng, màu đen và màu đỏ, còn phương thức di truyền của chúng như sau:

  • Lông trắng (gà lông trắng): Lông trắng là đặc trưng của gà chuyên trứng màu trắng, cũng là màu lông mong muốn đối với gà hướng thịt. Nguyên nhân do gà thịt lông trắng sau khi làm thịt, xác không còn dấu hiệu của màu lông và sắc tố đen, nhìn đẹp mắt và được người tiêu dùng quan tâm sử dụng. Trong việc gây giống gà hiện nay, gen lông trắng lặn được ứng dụng rộng rãi. Có 5 gen điều khiển lông trắng:
    • Gen điều khiển hình thành sắc tố (I)
    • Gen procyanidin (C)
    • Gen Oxidase (O)
    • Gen biểu hiện sắc tố (P), gen phi bạch tạng (A).
Kiểu hình gen là IICCOOPPAA, iic-cOOPPAA, iiCCooPPAA, iiCCOOppAA và iiccooPPaa, đều có biểu hiện lông trắng, nhưng phương thức di truyền lông trắng trên khác nhau, ngoài loại đầu tiên là gen trội lông trắng, gen khác đều là gen lặn.
  • Lông đen (gà lông đen): kiểu hình gen con vật có lông màu đen là CCOOEE. Trong quá trình sản xuất thường gặp hai loại gà lông trắng giao phối với nhau sẽ tạo ra tỷ lệ gà lông đen nhất định, có thể là kết quả giao phối giữa gà có kiểu gen ccOOEE và gà có kiểu gen CCOOee. Khi gặp trường hợp này, nên bỏ con gà bố mẹ mới có thể sản sinh ra dòng thuần lông trắng lặn.
  • Lông vàng: Gen điều khiển màu lông vàng nhẹ là Bu và Bu’, BuBu và Bu’Bu’ của đồng hợp tử đều có tính trội lấn át các màu sắc khác, khi gen I tồn tại, có thể sẽ lấn át gen C và E, vẫn biểu hiện màu vàng nhạt. Gen Bu và Bu’ tồn tại sẽ hiện lê màu vàng nhạt, nhưng màu vàng nhạt lại là gen lặn.
  • Màu hạt vừng: có các màu vừng vàng, vừng nâu đỏ và vừng nâu, lông màu hạt vừng của gà thịt chất lượng cao chủ yếu là màu lông hoang dã, màu lông gà trống rất giống với màu đỏ của gà rừng. Gen điều khiển màu lông gà rừng hiện vẫn chưa có nghiên cứu rõ ràng.
  • Lông đỏ: lông cánh, lông đuôi và lông chân của gà lông đỏ đều có những điểm đen. Vì thế, gà lông đỏ mang alen lặn của quỹ tích gen E (lấy E biểu hiện, đại diện một trong các gen ewh, e+, ep), kiểu hình gen có thể là CCOOPPee, gà lông đỏ cũng phải mang gen màu đỏ s, màu đỏ trội át màu đen.
  • Lông màu vàng bạc: điểm gen màu này là một trong những gen liên kết đã được phát hiện sớm, điểm này có các gen màu bạc S và gen màu vàng s, gen S trội át gen s, nếu mang gà Rốt đỏ, đem lai con bố gà New Hampshire (ZsZs) làm, con mẹ gà lông trắng, gà Sussex, thế hệ con có thể căn cứ màu lông để phân biệt giống, con trống sẽ có lông màu trắng kem, con mái sẽ có lông màu đỏ.

Di truyền và chọn giống màu lông gà thịt chất lượng cao, các nhà chọn giống gà vào mục đích sản xuất thường lai tạo để chọn ra những giống gà có màu lông thuần nhất, hạn chế các biến thể.

  • Chọn giống lông vàng: Lông vàng là đặc trưng quan trọng của gà thịt chất lượng cao, nó được quyết định bởi hai quỹ tích gen Bu và Bu’, khi Bu và Bu’ cùng tồn tại mới có thể biểu hiện lông vàng. Lông vàng trong các giống loại các địa phương của Trung Quốc là sự lựa chọn lâu dài, nên cơ bản đã trở thành đồng hợp tử, kiểu hình gen của nó đều là BuBuBu’Bu’. Để nâng cao sản lượng trứng và sức tăng trưởng của các giống địa phương, trong việc chọn giống gà thịt chất lượng cao, người ta đã thêm vào nó dòng máu khác loài mang gen màu lông khác, mang lại khó khăn cho việc ổn định tính trạng màu vàng.
Tỷ lệ lông trắng ở gà thịt lên đến 10% trở lên, vẫn còn trộn lẫn các màu mà người tiêu dùng không thích, ảnh hưởng đến hiệu quả chăn nuôi. Lông vàng là do tính trạng gen trội điều khiển; Khi Bu và Bu’ đồng hợp, trội đối với procyanidin gen C và gen màu đen E. Vì thế nên di truyền ổn định đối với màu vàng, cần bảo đảm thế hệ cha hoặc mẹ là đồng hợp trội, tức là kiểu hình gen BuBuBu’Bu’, mỗi một thế hệ cần phải loại bỏ cá thể đồng hợp lặn (biểu hiện là lông trắng), làm tần suất gen lặn giảm đi theo từng thế hệ. Phương pháp này đơn giản dễ làm nhưng tiến triển chậm. Có phương pháp khác là lai thử nghiệm, loại bỏ các cá thể chứa gen BuBu’, giữ lại gen BuBuBu’Bu’, phương pháp này phức tạp, cần phải làm nhiều bước, nhưng hiệu quả cao và nhanh.
  • Đối với lông hạt vừng: lông màu hạt vừng cũng là một đặc trưng màu lông quan trọng khác của gà thịt chất lượng cao, màu lông này có thể được quyết định bởi các alen trội của gen E: ewh,e+, ep, es, ebc, vì thế tính tương đối ổn định của nó dễ hơn đối với lông vàng. Tuy nhiên, màu lông vàng lặn át màu đèn, do vậy gà thịt lông vàng thường có các điểm lông đen xuất hiện ở chân, cánh và đuôi, gà màu lông hạt vừng cũng thường chia thành gà lông vàng, muốn cắt bỏ màu vàng, duy trì tính ổn định lông màu hạt vừng, cần áp dụng phương pháp giống như cắt bỏ lông trắng lặn ở gà lông vàng. Trong gây giống gà thịt chất lượng cao, thường lấy thế hệ tổ tiên hoặc bố mẹ gà lông trắng kết hợp với nhau. Ứng dụng đầu tiên của phương pháp này chính là “Jiang-13” (gà Tam hoàng), nhiều người dùng phương pháp từ Ixrael SK2700, K90, K99, K277.

Màu da của gà chủ yếu là màu trắng và màu vàng, kết quả thử nghiệp lai giống gà da vàng cho kết quả: da trắng và da vàng là do cặp gen của nhiễm sắc thể thường điều khiển, kiểu hình gen của da trắng là WW hoặc Ww, còn da vàng là ww, da trắng trội át da vàng. Ngoài ra còn có một số ít màu da là màu đen, có những loài không chỉ da đen mà cả nội tạng và xương cũng có màu đen. Đây là do tế bào sắc tố đen của sắc tố màu đen phân bố khắp các tổ chức cấu thành cơ thể gà. Vì vậy, mặc dù lớp ngoài tế bào thượng bì hoặc tế bào bên ngoài của cơ quan nội tạng đều không có sắc tố, nhưng do mô dưới có sắc tố tạo nên màu sắc cơ thể gà.

Màu sắc chân và mỏ thì lớp ngoài của chân và mỏ là dẫn xuất của da, chúng có các màu trắng, vàng, đen, chì, xanh lam, xanh lục, xanh phớt, màu vàng và màu đỏ trắng. Chân màu nhạt trội át màu đậm, mặt nhạt có gen ức chế Id, ức chế sự hình thành sắc tố đen lớp da thật, vì thế chân thường có màu vàng, trắng hoặc trắng đỏ, thử nghiệm chính phản giao cho thấy, Id là gen giới tính, gen chân màu nhạt (Id) trội át gen chân màu đậm (id), là cặp gen liên kết giới tính, cũng có thể ứng dụng cho việc nhận biết giới tính gà con. Người Việt Nam không chuộng gà chân chì (gà chân chì mua chi giống ấy).

Màu sắc vỏ trứng gà của gà chủ yếu có hai loại màu trắng và màu nâu, hai màu này thuộc di truyền đa nhân tử. Con lai giữa gà trứng trắng và gà trứng nâu là gà có trứng màu nâu nhạt. Tính di truyền màu nâu của gà trứng nâu khá cao, thường là 0.3. Vì thế, có thể làm đậm màu sắc trứng bằng cách chọn giống, gairm biến dị màu sắc vỏ trứng, đề đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Ngoài ra, trứng còn có màu xanh lục, tính trạng này chủ yếu bị điều khiển bởi gen trội G+, hiện đã xác định gen này nằm trên nhiễm sắc thể số 1. Người Việt Nam thường chuộng trứng có vỏ nâu.

Vào đầu thế kỷ 20, lý thuyết di truyền tính trạng chất lượng đã bắt đầu được ứng dụng rộng rãi trong gây giống và sinh sản vật nuôi. Năm 1902, lần đầu nghiên cứu di truyền đối với mào gà, sau đó đến năm 1905 đã chứng minh sự tồn tại của hiệu ứng tương tác trong di truyền hình dạng mào gà, năm 1912, đưa ra lý thuyết di truyền giới tính màu lông gà. Năm 1917, có thông báo kết quả lai giữa gen giới tính màu lông chấm vàng và màu vàng, bạc. Năm 1936, đưa ra sơ đồ nhiễm sắc thể của 7 gen giới tính và 11 gen nhiễm sắc thể thường, đến năm 1949 biên soạn thành bảng tổng hợp gen gà nhà. Năm 1980, đưa ra bảng tổng hợp hoàn chỉnh về gen gà nhà.

Cho đến nay, người ta đã phát hiện điểm gen điều khiển tính trạng chất lượng của gia cầm là trên 250 điểm, phần lớn nằm trên nhiễm sắc thể thường, cũng có một số nằm trên nhiễm sắc thể giới tính. Chúng có vai trò đặc biệt đối với tính trạng màu lông, mài da, hình thể, sinh lý, sinh hóa, miễn dịch, trao đổi chất và chết phôi ở gia cầm. Trung Quốc là một trong những nước có nguồn gà phong phú nhất, mức độ sản xuất cao nhất, lượng thức ăn nhiều nhất trên thế giới, những nghiên cứu có tính ứng dụng rộng rãi nhất, có các đặc điểm như tốc độ sinh trưởng nhanh, tính chống chịu môi trường, chu kỳ ngắn, thị trường sản phẩm rộng lớn, hiệu suất cao.

Màu lông vịt

Bài chi tiết: Vịt nhàGiống vịt
Một con vịt bụng đốm

Ngoại hình là tính trạng chất lượng quan trọng của giống vịt, do sự khác nhau giữa loại hình, giống và giới tính. Nghiên cứu màu lông, đặc trưng hình thể và cơ chế di truyền ở vịt, có ý nghĩa và giá trị ứng dụng quan trọng trong việc cải tiến nguồn gốc giống vịt. Màu lông của vịt lấy trứng vịt hầu hết là màu vừng nâu, màu vừng đen, đốm nâu, còn có số ít là lông màu đen. Màu lông của vịt lấy thịt vịt ngoài màu trắng (vịt Anh Đào, vịt Bạch Tuyết), đốm trắng đen và màu đen của ngan và vịt lai (Mule), những loài vịt khác đều có lông màu trắng, vịt lấy trứng và lấy thịt ngoài vịt trắng Liên Thành, những con khác đều có màu lông giống như vịt lấy trứng.

Di truyền tính trạng chất lượng ở vịt gồm các nội dung di truyền màu sắc của lông vịt được quyết định bởi 24 gen của 11 điểm gen, trong đó gồm có nhiều alen. Mối quan hệ trội lặn của gen điều khiển màu lông là MB>MR>Md. Trong đó, gen MB có thể quyết định màu đen, sắc tố màu đen viền lông cán, nhưng gen MB lại khác với gen khuếch tán sắc tố đen khác. Đối với quy luật di truyền màu lông vịt Kiến Xương thì màu lông vịt Kiến Xương được quyết định bởi gen lặn (e) trên nhiễm sắc thể thường, kiểu hình gen của nó là ee, gen ee át chế gen lặn đối với các gen ở điểm khác và tác động đến việc di truyền tính trạng chất lượng ở vịt.

Giống vịt nhà (vịt sông thuộc loài Anas linnaeus) có đặc tính sinh học và đặc trưng ngoại hình khác với ngan (thuộc họ Cairina). Vịt nhà phần lớn là mỏ trắng và da trắng, do gen trội Y trên nhiễm sắc thể thường quyết định, gen lặn y+, y+ biểu hiện là những màu sắc bình thường, gen màu sắc chân C+, R và E tương tác với nhau. Hình dạng lông được quyết định bởi gen trội không hoàn toàn Cr. Vỏ trứng vịt có các màu trắng (vịt Bắc Kinh và vịt đẻ trứng), màu trắng ngọc (ngan), màu thanh hoặc màu lục (vịt Kim Định) và màu mun (quạ đen mũi trọc). Vịt đẻ trứng khác loài có hình dạng trứng, trọng lượng và màu sắc trứng tương ứng, và có thể di truyền cho thế hệ sau. Trứng vỏ xanh được quy định bởi gen G+ G+, GG là gen quy định màu thường (kiểu hoang dã).

Màu lông ngan

Bài chi tiết: Ngan nhà
Một con ngan

Ngan cũng là giống có nhiều màu lông. Đến nay đã phát hiện được rằng màu lông ngan có 10 loại biến dị (Hình 4-1), trong đó có ba loại biến dị màu lông có thể quy vào loại khuếch tán, đó là khuếch tán màu lam, khuếch tán màu tím nhạt và khuếch tán màu nâu đậm. Ngan có 3 marker (gen tạo màu) màu lông trắng, trắng toàn bộ, lai, đầu trắng. Năm 1954, đã lần đầu giải thích về gen di truyền trắng toàn bộ, biểu hiện bằng gen P. PP là màu trắng, Pplà vằn trắng đen, pp là màu đen.

Điểm vằn trắng đen trong di hợp tử có thể thay đổi, các điểm này cũng không nhất quán. Cá thể ngan có màu trắng hoàn toàn thông thường sẽ có một điểm đen ở phần đầu, nhưng điểm đen này chỉ có ở ngan con, khi lớn lên có thể sẽ mất đi. Thế hệ bố mẹ sau khi lai, thế hệ con thường có màu, chứng tỏ rằng gen P và gen màu trắng lặn không phải cùng nguồn gốc, mối quan hệ lặn giữa gen quyết định màu trắng của ngan không giống với các loài gia cầm, điểu cầm khác.

Giống ngan phát triển từ loại nhạn đỏ. Giống này có phần đầu không quá to, chân dài và nhỏ, phần trán đều có bướu hình bán nguyệt, gọi là bướu ngỗng, được điều khiển bởi gen trội không hoàn toàn Kb. Ngan trống lớn hơn ngan mái, bướu thịt ở phần đỉnh đầu phát triển, có thể trồi hẳn lên, hai bên má cũng có thể thấy rõ bướu thịt, nhìn trực diện có thể thấy hình dạng giống đầu sư tử, còn được gọi là “ngỗng đầu sư tử”. Có loài còn có phần da dưới họng cũng chảy xuống, phần chảy xuống có hình túi gọi là túi họng.

Có loài ngan phía sau đầu có chùm hình cầu, gọi là búi (hoặc lông đỉnh đầu). Màu mắt ngan tùy theo chủng loài có thể chia thành màu xanh xám và màu nâu. Loại ngan này có hình thể dài và rộng, phần trước ưỡn lên, phần sau phát triển, phần bụng trĩu xuống, một số loài ngan có phần bụng trĩu xuống thành hình túi; phần bụng của ngỗng mái trong kỳ đẻ trứng to lên, gọi là ổ trứng. Giống ngan phát triển từ loại nhạn xám có đỉnh đầu bằng, không có phần thịt lồi lên, dưới trán không có túi họng, cổ ngắn và thẳng, cơ thể song song với mặt đất.

Vịt lai (mule) là con lai giữa ngan trống và vịt nhà mái, cung cấp thịt. Năm 1962, viện nghiên cứu sinh sản gia súc Nghi Lan của Đài Loan đã tiến hành nghiên cứu màu lông vịt mule, đem lai giữa giống vịt cải tạo lông trắng và ngan lông trắng, qua 12 thế hệ sẽ cho ra vịt mule lông trắng. Sau đó, công ty Grimaud của Pháp và viện nghiên cứu chăn nuôi thú y tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc lần lượt chọn ra vịt mule lông trắng hay còn gọi là ngan Pháp (con mẹ), dùng phương pháp chọn giống gần loài và kết quả phân tích di truyền màu sắc chứng tỏ rằng, tỷ lệ lông trắng ở mule khác nhau do yếu tố chủng loài và cá thể con mẹ.

Màu lông ngỗng

Bài chi tiết: Ngỗng nhà
Đầu của một con ngỗng nhà có màu lông trắng ở Venezuela

Tổ tiên hoang dã của ngỗng nhà là nhạn đỏnhạn xám thuộc họ nhạn. Các loài ngỗng nhà của Trung Quốc đều là thế hệ con của nhạn đỏ (trừ ngỗng Tân Cương thuộc loài nhạn xám), các giống ngỗng Châu Âu phần lớn có nguồn gốc từ nhạn xám. Trọng lượng và hình thể của ngỗng nhà đều nặng và lớn hơn vịt nhà, phần đuôi ngỗng trống đều không có lông phân biệt giới tính. Điều kiện sinh thái và mục đích chọn giống khác nhau đã hình thành nên nhiều loại ngỗng với các đặc điểm khác nhau.

Hiện nay có thể chia các đặc trưng chính về ngoại hình ngỗng. Lông ngỗng có màu trắng và màu xám, trên thế giới có tổng cộng 36 loại ngỗng, trong đó ngỗng trắng chiếm 2/3, lông phần thân của ngỗng con có màu vàng nhạt, khi lớn lên sẽ trở thành màu trắng muốt, ngỗng Tân Cương khi nhỏ cũng có lông màu vàng nhạt, nhưng lớn lên lông sẽ chuyển dần thành màu xám, phần viền lông chủ yếu là màu sắc nhạt. Thế hệ ngỗng F1 giữa ngỗng xám và ngỗng trắng sẽ có màu lông xám, điều này chứng tỏ gen lông xám trội át gen lông trắng.

Mỏ, bướu, chân và ngón đều có màu cam đỏ, móng có màu trắng; còn mỏ và bướu ngỗng xám có màu đen, chân và ngón có màu đen hoặc màu cam tối, màu lông và di truyền tính trạng của chúng có mối quan hệ nhất định. Chân ngỗng trống thô và dài hơn ngỗng trống, màu sắc chân và ngón chấn chủ yếu là màu đỏ cam và màu đen, nhưng cũng tùy loài. Di truyền tính trạng của trứng ngỗng thì tính trạng trứng có màu sắc, chỉ số hình dạng, độ dày vỏ trứng và tỷ lệ long đỏ và lòng trắng trong tổng trọng quả trứng. Nó là tính trạng di truyền thấp, giữa trính trạng này tồn tại mối quan hệ nhất định.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Màu sắc động vật http://www.zoology.ubc.ca/~otto/PopGen500/Discussi... http://animals.howstuffworks.com/animal-facts/anim... http://www.nytimes.com/2005/03/15/science/15blue.h... //www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/1422807 //www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/5700268 http://vnexpress.net/tin-tuc/khoa-hoc/10-con-vat-c... http://vnexpress.net/tin-tuc/khoa-hoc/loai-con-tru... http://vnexpress.net/tin-tuc/khoa-hoc/mau-long-cho... http://vnexpress.net/tin-tuc/khoa-hoc/nhung-con-tr... http://vnexpress.net/tin-tuc/khoa-hoc/nhung-dieu-t...